Theo sử liệu Trung Hoa cổ, vương quốc đầu tiên của bộ tộc nói tiếng Khmer thành lập vào khoảng thế kỷ thứ II trước Công nguyên, nhưng theo các nhà khảo cổ học phương Tây dựa vào bia ký khắc trên đá, vách thành đã được tìm thấy dưới lòng đất thì người Khmer lập quốc vào thế kỷ thứ I sau Công nguyên với sự ra đời của Vương quốc Phù Nam (Funan), được cho là quốc gia đầu tiên tại Đông Nam Á, chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Hindu. Ngày nay, văn hóa, các phong tục truyền thống và cả ngôn ngữ của người Khmer hầu hết đều bắt nguồn từ giai đoạn này.
Tiếng Khmer là ngôn ngữ được sử dụng để giao tiếp và chữ Phạn (peasa Pali) được dùng để ghi chép trong thời kỳ đó. Tôn giáo trong giai đoạn đầu là Đạo Hindu, thống trị trong suốt thời gian dài trước khi Đạo Phật được phổ biến tại đây. Các chứng tích về sự giao thoa văn hóa và tôn giáo này ngày nay vẫn còn tồn tại rất nhiều tại những vùng đất mà người Khmer cổ đã từng sinh sống, thể hiện qua các công trình kiến trúc cổ, cách thức làm nông nghiệp của người dân và cả thông qua các trang phục truyền thống, cũng như nghi thức lễ hội.
Vương quốc Phù Nam khi đó nằm trên vùng đất mà ngày nay là các tỉnh phía nam Campuchia và Tây Nam Việt Nam, tồn tại trên 600 năm. Triều đại này dần suy sụp vào thế kỷ thứ 7 khi vị vua đời thứ 13 của Vương triều không còn chú tâm vào việc phát triển kinh tế và chính trị, sau đó bị một vương quốc Khmer mới nổi khác là Vương quốc Chân Lạp (Chenla) xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ. Nhân vật làm nên cuộc biến loạn và làm suy vong Vương quốc Phù Nam là vua Bhavavarman - vốn là một người thuộc Hoàng tộc của Phù Nam.
Chân Lạp lập quốc tại vị trí mà ngày nay nằm ở phía Bắc Campuchia và Nam Lào. [ Tên gọi Campuchia, xuất hiện vào khoảng thời gian đầu của triều đại này. Tên nước Kampuja được đặt theo tên của quốc tổ sáng lập nên triều đại Phù Nam. Theo truyền thuyết, một quý tộc Brahman Ấn Độ tên là Kaundinya (hiệu là Kampu) kết hôn với công nương Soma (một số tài liệu gọi là Mera) là con gái của vua Naga thuộc dòng giống rồng thiêng, là bá chủ cả một vương quốc rộng lớn trong khu vực Thái Bình Dương (tộc người Indonesia ngày nay). Từ họ đã sinh ra dân tộc Khmer, các vị vua Chân Lạp vì thế mà đặt tên chính thể của mình là Kampuja]
Sau năm 707, Chân Lạp có sự chia rẽ nội bộ, một lần nữa tộc người Khmer lại tách thành hai quốc gia là Thượng Chân Lạp và Thuỷ Chân Lạp. Thượng Chân Lạp chiếm cứ vùng rừng núi phía Bắc, còn Thủy Chân Lạp chiếm cứ vùng đồng bằng sông Mekong bao gồm các tỉnh phía Nam Campuchia và Miền Nam Việt Nam ngày nay. Đến năm 715, 2 nước Chân Lạp tiếp tục bị tách ra thành nhiều tiểu quốc khác.
Hình vẽ mô phỏng vua Suryavarman II thuyết triều trên phù điêu Angkor
Khoảng năm 802, vua Jayavarman II lên ngôi, thống nhất lại dân tộc, thiết lập nên Đế Quốc Khmer hùng mạnh nhất Đông Nam Á. Đế Quốc Khmer tồn tại khoảng 650 năm trên một lãnh thổ rộng lớn kéo dài từ lãnh thổ Myanmar ra tới Biển Đông và cả phần Nam Lào ngày nay. Chính các vua của Đế Quốc Khmer đã xây dựng vô số các đền tháp, cung điện mà ngày nay được xem là kỳ quan nhân tạo của nhân loại. Các công trình này được xây dựng trên khắp lãnh thổ của Đế quốc, mà Angkor Wat là thành tựu rực rỡ nhất.
Các vị vua được nhắc đến nhiều nhất trong thời kỳ này là: Jayavarman II, Indravarman I, Suryavarman II, Jayavarman VII. Bên cạnh các công trình kiến trúc hũng vĩ bậc nhất trên thế giới, các vị vua này còn là những chính trị gia kiệt xuất, đem lại sự phát triển vượt bậc cho nền văn minh nông nghiệp với các thành tựu như hàng loạt kênh tưới tiêu phức tạp, các hồ dự trữ nước và vô số hệ thống giao thông đường thủy đảm bảo việc vận chuyển lương thực. Nhiều hệ thống này vẫn còn được sử dụng cho đến ngày hôm nay.
Angkor là kinh đô của Đế chế, nơi tập trung bộ máy quyền lực, giáo dục, tôn giáo và thương mại. Các nhà khoa học Phương Tây lập luận rằng “Cố đô Angkor là thành phố lớn nhất thế giới trong thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp”, trải dài trên diên tích 1150 dặm vuông. Tuy nhiên, vào khoảng thế kỷ XIV, 2 trận siêu hạn hán kéo dài tổng cộng 50 năm và dịch bệnh lan tràn đã khiến Angkor hoàn toàn kiệt quệ. Sau đó, một cuộc binh biến đã xảy ra, Angkor bị xâm lược và cuối cùng hoàn toàn tan rã vào thế kỷ XV. Một trong những thành tựu sáng tạo vĩ đại nhất của loài người bị tàn phá nặng nề. Toàn bộ cư dân và sự hùng mạnh đáng tự hào trước đây trở nên bị lãng quên và dần bị rừng rậm che phủ và tàn phá.
Sau khi Angkor bị lãng quên, kinh đô Khmer dời về phía nam tại Long Vek, rồi Ou Đông, và cuối cùng là Phnom Penh. Sự tàn phá kinh đô Angkor hùng mạnh cũng gây ra một sự suy sụp, thay đổi trong tôn giáo, Đạo Phật Theravada dần dần thay thế đạo Hindu chiếm vị trí độc tôn và trở thành quốc giáo.
Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, tộc người Khmer thường xuyên bị người Thái và người Việt xâm lấn. Luôn sống trong cảnh phải kháng cự với các thế lực ngoại bang, bị mất một phần lớn đất nước và dân số cho các nước trên. Người Khmer chỉ giữ được một phần nhỏ trung tâm đất nước là Campuchia ngày nay, nhưng cuối cùng Campuchia lại rơi vào ách thực dân của người Pháp. Năm 1863, vua Norodom ký Thỏa ước bảo hộ với nước Pháp, đặt Campuchia dưới sự cai trị của thực dân Pháp trong 90 năm sau đó. Sau khi vua Norodom băng hà vào năm 1904, một người trong hoàng tộc là Sisowath lên ngôi vua, tình hình Campuchia không có sự thay đổi nhiều. Tuy nhiên, ngai vàng sau đó lại quay trở lại với dòng chính thức của vua Norodom khi vua Norodom Sihanouk lên ngôi vào năm 1941, khi ngài mới 18 tuổi. Không lâu sau đó, chiến tranh Thế giới lần thứ II lan đến Campuchia khi quân Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương. Vua Sihanouk tận dụng thời cơ đưa đất nước thoát khỏi sự cai trị của ngoại bang.
Nhiều năm sau đó, ông vẫn luôn kiên trì với mục tiêu đó và thật sự đạt được thành công khi tuyên bố độc lập hoàn toàn vào năm 1953, chấm dứt 90 năm bị thực dân Pháp đô hộ. Năm 1959, vua Sihanouk thoái vị và trao lại ngôi vị quốc vương cho cha mình là vua Norodom Saramarith, và ngài trở thành Quốc trưởng trực tiếp điều hành chính phủ.
Trong gian đoạn từ 1950 đến 1970, Vương quốc Campuchia tự chủ và phát triển thịnh vượng, đạt được nhiều thành tựu về mọi mặt. Campuchia thời điểm đó còn được coi là "viên ngọc của Phương Đông". Không may là giai đoạn này lại chấm dứt qúa nhanh.
Chiến tranh leo thang tại Việt Nam, vùng biên giới Campuchia cũng trở thành mục tiên đánh phá của đế quốc Mỹ. Các diễn biến tiếp theo đã dẫn tới sự kiện ngày 18 tháng 3 năm 1970, tướng Lon Nol được sự hậu thuẫn của người Mỹ làm đảo chính lật đổ Quốc trưởng Sihanouk nhằm xoá bỏ chế độ quân chủ và tiến hành thể chế dân chủ. Campuchia lại rơi vào tình trạng chiến tranh ngay sau đó, cuộc chiến chủ yếu diễn ra giữa lực lượng của Lon Nol và Mặt trận kháng chiến cộng sản Khmer (lực lượng Khmer Đỏ) đứng dầu bởi PolPot.
Tướng Lon Nol thành lập nhà nước dân chủ theo mô hình Tây Âu và Mỹ, lấy tên nước là Cộng hòa Khmer, kiểm soát đất nước được hơn 5 năm, cuối cùng sụp đổ bởi Khmer Đỏ vào ngày 17 tháng 4 năm 1975.
Lịch sử hủy diệt lại lập lại một lần nữa: chỉ 3 giờ sau khi quân của Pol Pot tràn vào Phnom Penh, toàn bộ cư dân bị ép buộc di tản khỏi thành phố một thời thịnh vượng để biến nơi đây trở thành đổ nát hoang tàn. Sau cuộc di tản, Khmer Đỏ ép Hoàng thân Sihanouk trở về Phnom Penh để tiếp tục vị trí Quốc trưởng, nhưng thực tế là để giam lỏng ngài trong Hoàng cung như một sự che mắt công chúng. Khmer Đỏ bắt đầu thi hành chính sách cai trị khủng bố trên khắp Campuchia. Người dân bị ép buộc một cách tàn bạo để lao động trên những cánh đồng như những nô lệ, họ phải chịu cảnh lao động nặng nhọc, bị đánh đập và bỏ đói. Trong xã hội dưới thời Khmer Đỏ không tồn tại khái niệm bệnh viện và trường học, các giáo viên, bác sĩ, tu sĩ và giới trí thức bị đưa đi hành quyết một cách dã man, không cần bất cứ một lý do nào. Tiền tệ bị xóa bỏ, không kinh doanh, không thương mại. Mọi thứ đều trở thành bất hợp pháp và có thể là nguyên nhân để dẫn đến một cái chết bất cứ lúc nào. Tất cả người dân bị buộc sống tập trung trong các trại lao động trong suốt thời gian Khmer Đỏ cai trị, tổng số người chết vì bị tra tấn, bị bỏ đói, bị bệnh không được điều trị y tế hoặc bị hành quyết trong thời kỳ đó khoảng 2 triệu người, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em vô tội.
Sau khi Chính phủ Công hòa nhân dân Campuchia cùng với Việt Nam lật đổ chế độ Khmer Đỏ vào ngày 7 tháng 1 năm 1979, Việt Nam tiếp tục đóng quận tại Campuchia đến năm 1989 thì rút quân.
Năm 1991, Hiệp định hòa bình Paris được ký kết, 22,000 quân gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc được gửi tới Campuchia. Tháng 5 năm 1993, Ủy ban chuyển giao quyền lực Liên hiệp quốc tại Campuchia (UNTAC – United Nations Transitional Authority of Cambodia) tổ chức cuộc tổng bầu cử tự do đầu tiên tại Campuchia. Người dân Khmer đã chọn chính thể quân chủ lập hiến cho đất nước mình với Hoàng thân Sihanouk trở thành vị vua của Vương quốc Campuchia.
Ngày nay, mặc dù dân tộc vẫn còn lưu lạc nhưng Vương quốc Campuchia đã trở lại với hình ảnh một nơi yên bình, đang nỗ lực hồi sinh sau biết bao đau thương biến cố...
Và các sự kiện tiếp theo…nhờ các bạn bổ sung nhé. Vui lòng để lại ý kiến đóng góp trong phần comment bên dưới.
-----------
Cám ơn các bạn đã kiên nhẫn đọc hết, trong một status dài thế này tất nhiên có những điều mình viết chưa hoàn toàn đúng, bài viết có nhiều thiếu sót, mong nhận được sự góp ý từ phía các bạn
Khổng Seyla tổng hợp